Thứ năm, ngày 28 tháng 3 năm 2024

Trương Tấn Sang

Thưa Tiến sĩ John Hamre, Chủ tịch - Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ,

Thưa các quý vị và các bạn,

Tôi vui mừng tới thăm và phát biểu với các quý vị tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ (CSIS). Trong khán phòng hôm nay, tôi được biết nhiều học giả có tên tuổi, nhiều vị đã có mối quan tâm lâu dài với Việt Nam. Nhiều vị đã và đang có những đóng góp rất quan trọng cho mối bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Xin gửi tới các quý vị lời chào trân trọng và lời cảm ơn chân thành nhất.

Tôi đánh giá cao vai trò của CSIS, với tư cách là một trung tâm học thuật, nghiên cứu chiến lược hàng đầu ở Hoa Kỳ và trên thế giới, trong việc tăng cường đối thoại, hiểu biết giữa chính giới, học giả và nhân dân các nước, cũng như đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến an ninh, hòa bình, ổn định và thịnh vượng trên thế giới. Đó là những quan tâm và lợi ích mà tất cả các nước đều chia sẻ. Đây chính là nhân tố quan trọng và rất cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác và phát triển của mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong giai đoạn tới.

Tôi muốn chia sẻ một số suy nghĩ về khung cảnh của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong khung cảnh đó.

Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương

Những chuyển dịch sâu sắc, chưa từng có trên toàn cầu trong hơn một thập kỷ qua khẳng định trong thế kỷ 21, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động nhất và đóng vai trò đầu tàu trong liên kết kinh tế thế giới. Đây là khu vực tập trung 10 trong số 20 nền kinh tế lớn nhất, với tỉ trọng thương mại xuyên Thái Bình Dương hiện đã chiếm 2/3 thương mại toàn cầu, đóng góp gần 40% tăng trưởng toàn cầu.

Châu Á - Thái Bình Dương ngày nay đang đem lại cơ hội cho tất cả các quốc gia trên thế giới: (i) Hoa Kỳ cùng chia sẻ bờ biển Thái Bình Dương; (ii) châu Âu với những mối liên hệ lịch sử; (iii) các nước ven bờ Ấn Độ Dương gắn chặt với Thái Bình Dương qua eo biển Ma-lắc-ca. Sự thịnh vượng kinh tế của mỗi nước tại khu vực - dù đó là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, hay Ấn Độ và các nước ASEAN - đều đóng góp cho sự thịnh vượng chung của cả khu vực. Và ngược lại, một châu Á phồn vinh cũng tạo đà mạnh mẽ cho sự phát triển của mỗi nước trong khu vực. Sự phát triển của khu vực gắn liền với phần còn lại của thế giới. Do đó, việc các nước lớn đặt châu Á - Thái Bình Dương ở vị trí ưu tiên trong chính sách của mình là điều tất yếu.

Những cơ hội to lớn mà châu Á - Thái Bình Dương đem lại đang thúc đẩy xu hướng hợp tác, liên kết năng động. Các diễn đàn khu vực và liên khu vực như APEC, ASEM tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong liên kết giữa các nước ven bờ Thái Bình Dương với châu Á, giữa châu Âu với châu Á. Trong vài năm gần đây, bên cạnh việc triển khai các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương đã ký kết, các nước cũng đang thúc đẩy mạnh mẽ các liên kết kinh tế mới sâu rộng hơn rất nhiều về cấp độ, quy mô và không gian kinh tế, như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Khu vực thương mại tự do Đông Bắc Á. Tất cả các kênh liên kết này sẽ chiếm tỉ trọng lớn và sẽ đem đến những thay đổi đáng kể trong nền kinh tế toàn cầu, góp phần tạo động lực phát triển mới, đồng thời mở ra triển vọng hướng tới một Khu vực thương mại tự do chung cho toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP). Có thể nói, việc thực hiện thành công các liên kết này có tầm quan trọng chiến lược với tất cả chúng ta.

Thưa các quý vị,

Những tiềm năng của khu vực là hết sức to lớn. Thế nhưng, những tiềm năng đó có trở thành hiện thực hay không phụ thuộc vào môi trường hòa bình, an ninh khu vực. Bảo đảm một môi trường hòa bình, ổn định, ngăn chặn và kiểm soát các xung đột là trách nhiệm chung của các nước trong và ngoài khu vực.

Việc xây dựng và củng cố một cấu trúc khu vực nhằm tăng cường hợp tác, kết nối giữa các nước về kinh tế, thương mại, chính trị, an ninh, văn hóa, xã hội chính là sự đảm bảo hữu hiệu nhất cho hòa bình và thịnh vượng. Nằm ở trung tâm của khu vực trải rộng từ Thái Bình Dương tới Ấn Độ Dương và là cầu nối giữa các cường quốc, các nước vừa và nhỏ, ASEAN có vị trí hết sức quan trọng trong các tiến trình hợp tác ở châu Á. Chính vì vậy mà các nước đều thừa nhận vai trò trung tâm của Hiệp hội ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình.

Để bảo đảm môi trường hòa bình, an ninh và phát triển, ASEAN sẽ tăng cường hoạt động của cơ chế, diễn đàn, thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện các công cụ, chuẩn mực, quy tắc. Trong vấn đề an ninh, an toàn và tự do hàng hải, ASEAN kiên trì thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, thực hiện đầy đủ DOC, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982. Việc ASEAN và Trung Quốc mới đây đạt được nhất trí về khởi động tham vấn chính thức nhằm hướng tới Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) là dấu hiệu tích cực ban đầu và cần tiếp tục được thúc đẩy.

Về kinh tế, ASEAN là giao điểm của nhiều mạng kết nối kinh tế - thương mại tại châu Á - Thái Bình Dương. ASEAN sẽ nỗ lực hơn nữa nhằm gắn kết các hiệp định thương mại tự do song phương cũng như đa phương, thúc đẩy việc hướng tới một khu vực thương mại tự do chung cho toàn khu vực. Xu thế hướng tới liên kết khu vực chặt chẽ sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ cho các mối quan hệ kinh tế và lợi ích đan xen giữa các nước, bảo đảm cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng lâu dài.

Các nước lớn luôn có vai trò quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế, trong các cơ chế đa phương và tại châu Á - Thái Bình Dương. Tăng cường quan hệ với các nước đối tác quan trọng luôn là một ưu tiên của ASEAN cũng như Việt Nam. Trong việc xử lý các vấn đề an ninh, điều mà ASEAN mong muốn là hòa bình, ổn định được duy trì, các cơ chế khu vực phát huy vai trò, luật pháp quốc tế được tôn trọng. Chúng tôi mong muốn tất cả các cường quốc đóng góp một cách có trách nhiệm vào nỗ lực chung này. Hiệp hội sẽ không trở thành công cụ cho bất cứ sự đối đầu và chia rẽ nào, một điều sẽ không đem lại lợi ích cho bất kỳ quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ.

Trong bối cảnh đó, việc xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN tự cường vào năm 2015 đã trở thành ưu tiên số một của các nước thành viên Hiệp hội. Đối với Việt Nam, đây là một nội hàm hết sức quan trọng trong đường lối đối ngoại của chúng tôi. Chúng tôi đã và sẽ tham gia vào các hoạt động của ASEAN một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm, gắn lợi ích quốc gia của mình với lợi ích chung của Hiệp hội nhằm củng cố vai trò, vị thế của ASEAN, duy trì và tăng cường đoàn kết, đồng thuận nội khối. Có như vậy, ASEAN mới có đủ sức mạnh, tự cường để xây dựng thành công Cộng đồng. Chúng tôi cũng sẽ cùng các nước phấn đấu đưa Hiệp hội trở thành hạt nhân trung tâm trong tiến trình hợp tác khu vực, tăng cường mối quan hệ tương tác sâu rộng với các nước đối tác nhằm phục vụ các mục tiêu và lợi ích chung.

Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ

Trong lòng một khu vực châu Á - Thái Bình Dương năng động và giàu tiềm năng, mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã thực sự được mở rộng và nâng tầm trên nhiều lĩnh vực, cả bề rộng, bề sâu cũng như hiệu quả của các lĩnh vực đó. Nếu nhìn lại cả chặng đường dài lịch sử, chúng ta mới thấy được những bước tiến, những thành tựu trong quan hệ hai nước ngày nay là rất có ý nghĩa.

 

CTN


        Hai nhà lãnh đạo đã quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt - Mỹ - Ảnh: AFP

Như các quý vị có thể đã biết, cách đây 100 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân lên đất nước Hoa Kỳ trên con đường đi tìm tự do và độc lập cho dân tộc mình. Người đã chia sẻ những khát vọng chung của loài người, được Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson nêu trong Tuyên ngôn 1776 khai sinh ra Hợp chủng quốc Hoa Kỳ: đó là khát vọng được sống, bình đẳng, tự do và hạnh phúc. Tháng 2/1946, không lâu sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tổng thống Hoa Kỳ Truman, bày tỏ mong muốn hai dân tộc cùng dựng xây mối quan hệ “hợp tác đầy đủ”. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, năm 1995, hai nước đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Đối với Việt Nam, việc tăng cường quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ nằm trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đưa các mối quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định.

Sáng hôm nay, tôi đã có cuộc hội đàm với Ngài Tổng thống Obama. Tôi vui mừng thông báo với các bạn, Việt Nam và Hoa Kỳ đã nhất trí xác lập khuôn khổ quan hệ Đối tác toàn diện. Theo đó, hợp tác giữa hai nước sẽ bao gồm tất cả các lĩnh vực: chính trị - đối ngoại, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục, khoa học - công nghệ, quốc phòng - an ninh. Tôi cũng đã tiếp kiến Bộ trưởng Thương mại, Bộ trưởng Nông nghiệp và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ; có các cuộc gặp với Chủ tịch Ngân hàng Thế giới và Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế, gặp các Nghị sĩ của Thượng, Hạ viện và Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, Tọa đàm bàn tròn với doanh nghiệp Hoa Kỳ. Ngài Tổng thống và các Bộ trưởng Hoa Kỳ nhấn mạnh quan hệ hai nước đang có cơ hội to lớn để phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới và cam kết sẽ thúc đẩy hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư. Chúng ta sẽ tiếp tục hình thành những cơ chế đối thoại và hợp tác với những chương trình cụ thể nhằm đưa quan hệ hai nước đi vào chiều sâu và phát triển thực chất.

Một nội dung quan trọng nữa là Việt Nam và Hoa Kỳ đã tái khẳng định quyết tâm và cam kết cùng các nước thành viên kết thúc đàm phán TPP theo lộ trình đã đề ra, hướng tới một hiệp định cân bằng vì phát triển. Với việc hướng tới tham gia vào liên kết kinh tế quan trọng hàng đầu này, Việt Nam tiến một bước lớn trên con đường hội nhập quốc tế toàn diện, đồng thời đóng góp vào sự năng động, phồn vinh của khu vực. Chúng tôi mong muốn hiện thực hóa những lợi ích về thương mại, đầu tư, công nghệ, tiếp cận các công đoạn cao hơn của chuỗi giá trị và cung ứng ở khu vực và trên toàn cầu, tạo việc làm và góp phần bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi người dân. Việc tham gia TPP cũng góp phần thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Cố nhiên, quá trình này không hề đơn giản với một nước đang phát triển như Việt Nam. Bên cạnh cố gắng cao độ của chúng tôi thì sự linh hoạt và hợp tác của Hoa Kỳ cũng là yếu tố rất quan trọng. Trong tiếp xúc với tôi, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đều khẳng định ủng hộ mạnh mẽ quan hệ song phương phát triển toàn diện, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế thương mại và đầu tư; và cam kết hết sức hỗ trợ để đạt được một hiệp định thương mại tiêu chuẩn cao và toàn diện, cân bằng lợi ích cho tất cả các bên; nhất trí vận động dành một giai đoạn chuyển đổi hợp lý cho Việt Nam trong tiến trình TPP.

Chúng tôi nhận thức rõ rằng mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ phát triển ổn định, lâu dài, thực chất không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi nước mà còn có tầm quan trọng đối với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực. Chúng tôi hoan nghênh cam kết của Tổng thống Obama tiếp tục chính sách tăng cường hợp tác với châu Á - Thái Bình Dương vì hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực; coi ASEAN là trụ cột chính trong chính sách này, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực và bày tỏ sự ủng hộ đối với việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông. Bên cạnh khuôn khổ TPP, Việt Nam sẽ đẩy mạnh hợp tác với Hoa Kỳ trên nhiều diễn đàn khác nhau, trong đó có các cơ chế của ASEAN, hợp tác Tiểu vùng Mê Công, Cấp cao Đông Á và APEC.

Đương nhiên, hai nước sẽ tiếp tục phải giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Là một dân tộc có truyền thống hòa hiếu, Việt Nam chủ trương “gác lại quá khứ và hướng tới tương lai”. Trong bất cứ mối quan hệ quốc tế nào, việc tồn tại các bất đồng và khác biệt là điều bình thường. Việc chúng ta cần làm là xây dựng lòng tin, xây dựng quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, thể chế chính trị và cùng có lợi.

Nhìn lại lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, việc xác lập quan hệ Đối tác toàn diện hôm nay là kết quả của một quá trình hợp tác hướng tới tương lai của cả hai bên. Bắt đầu từ những nỗ lực nối lại quan hệ sau chiến tranh, đến tháng 7/1995, bang giao Việt Nam - Hoa Kỳ đã chính thức được thiết lập, mở ra một chương hoàn toàn mới trong quan hệ giữa hai nhà nước và nhân dân hai nước. Trong 18 năm qua, mối bang giao Việt Nam - Hoa Kỳ đã có những bước phát triển nhanh chóng. Năm 2005, hai nước đã xác lập khuôn khổ “quan hệ đối tác hữu nghị, xây dựng, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi”.

Cùng với các bước phát triển của quan hệ, phương cách quan hệ giữa hai bên đang dần thay đổi. Mô thức quan hệ giữa hai cựu thù mà đặc trưng là những chính sách bao vây, cấm vận, trừng phạt trước đây đã nhường chỗ cho các chính sách hòa giải và hợp tác nhiều mặt, đối tác xây dựng mà đặc trưng là tôn trọng thể chế chính trị của nhau, cùng có lợi, đối thoại, gia tăng giao lưu để thu hẹp khác biệt… Đến nay, quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã phát triển nhanh chóng. Từ năm 2005, Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng gấp 54 lần trong 18 năm. Tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của Hoa Kỳ vào Việt Nam tính đến cuối tháng 5/2013 đạt 10,5 tỷ USD, đứng thứ 7 trong số các nước, vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam. Hợp tác về khoa học, công nghệ, hợp tác về văn hóa, giáo dục, du lịch, quốc phòng - an ninh cũng đang phát triển sâu rộng. Các hoạt động hợp tác về y tế và nhân đạo như rà phá bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh, vấn đề di chứng và chất độc da cam dioxin, tìm kiếm người mất tích trong chiến tranh… đã có sự hợp tác tốt và hiệu quả cao, có sức lan tỏa lớn từ cả hai phía.

Về vấn đề quyền con người, chúng ta thừa nhận còn có sự khác biệt. Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này là phải tiếp tục tăng cường đối thoại một cách thẳng thắn để tăng cường hiểu biết và thu hẹp khác biệt. Trên tinh thần đó, trong cuộc gặp với các Nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, chúng tôi đã trao đổi cởi mở và xây dựng trên tinh thần bạn bè về quan hệ hai nước, trong đó có vấn đề nhân quyền, tôn giáo. Tôi cũng có mời một số vị chức sắc tôn giáo Việt Nam cùng đi với tôi và họ đã có cuộc trao đổi rất thẳng thắn với các tổ chức của Hoa Kỳ và quốc tế quan tâm đến vấn đề này.

Thưa các quý vị,

Thông điệp mà tôi muốn nhấn mạnh với quý vị là Việt Nam mong muốn hai nước sẽ tăng cường hợp tác toàn diện vì lợi ích của nhân dân hai nước, cùng chung tay đóng góp và vun đắp cho một châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, năng động và thịnh vượng. Và chúng ta cần nỗ lực, hết sức nỗ lực hợp tác với nhau trên tinh thần tôn trọng, bình đẳng và cùng có lợi vì mục tiêu chung đó.

Tôi cảm ơn Tiến sĩ John Hamre và quý vị về buổi đón tiếp trọng thể này. Mong rằng CSIS sẽ tiếp tục có nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm nhằm trao đổi những ý tưởng về các tiến trình hợp tác tại châu Á - Thái Bình Dương, về sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Mong rằng mỗi quý vị có mặt tại đây sẽ tiếp tục những đóng góp tích cực và có ý nghĩa cho những tiến trình đó, như quý vị đã và đang làm.

Xin trân trọng cảm ơn!

Kôn-ni-chi-wa,

Thưa Ngài Massaki Yamazaki, Chủ tịch Thượng nghị viện,

Thưa Ngài Bunmei Ibuki, Chủ tịch Hạ nghị viện,

Thưa Ngài Shinzo Abe, Thủ tướng Nhật Bản,

Thưa các vị Bộ trưởng,

Thưa quý vị đại biểu lưỡng viện,

Hôm nay, tôi rất vinh dự được phát biểu tại Quốc hội Nhật Bản - cơ quan lập pháp có lịch sử lâu đời nhất ở châu Á và đóng vai trò rất quan trọng trong suốt 125 năm lịch sử của đất nước Mặt Trời mọc. Thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam, tôi xin gửi tới quý vị và nhân dân Nhật Bản những tình cảm hữu nghị và lời chúc tốt đẹp nhất.

Trở lại Nhật Bản vào dịp mùa hoa anh đào chuẩn bị nở rộ, tôi rất vui mừng trước sự hồi sinh mạnh mẽ của Nhật Bản ba năm sau thảm họa động đất sóng thần tháng 3/2011. Trong chuyến thăm tháng 6/2011, tôi đã cảm nhận rõ ý chí quật cường và quyết tâm xây dựng lại quê hương của mỗi người dân Nhật Bản mà tôi đã gặp. Bản lĩnh, tính kỷ luật và tinh thần tương trợ lẫn nhau của nhân dân Nhật Bản đã khiến cả thế giới cảm phục. Khi nhắc đến Nhật Bản, mỗi người dân Việt Nam chúng tôi đều hình dung ngay đến một dân tộc luôn đứng dậy mạnh mẽ sau mỗi thử thách nghiệt ngã, luôn kiên cường vượt qua mọi khó khăn đi lên phía trước. Khi các bạn đối mặt với thảm họa động đất sóng thần, nhân dân Việt Nam chúng tôi đã luôn sát cánh bên các bạn và coi những mất mát của người dân Nhật Bản như mất mát của chính bản thân mình...

 

Các nguyên tắc Bandung đã hòa quyện trong chính sách đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển của Việt Nam, trong đó Việt Nam luôn ưu tiên cao thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết và hợp tác với các nước Á - Phi. Ở cấp độ toàn cầu, Việt Nam chủ trương tăng cường tham gia chủ động, tích cực, có trách nhiệm vào các cơ chế hoạch định chính sách chung toàn cầu, góp phần phát huy tiếng nói chung của các nước đang phát triển. Tại khu vực Đông Nam Á, Việt Nam kiên trì chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.

 

Dù là người châu Âu hay châu Á, chúng ta đều có nhận thức
chung là châu Á - Thái Bình Dương luôn có tầm địa chiến lược quan
trọng trên bản đồ chính trị thế giới. Tiềm năng và trí sáng tạo đang mở
ra những vận hội mới cho các nước châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục
phát triển và thịnh vượng trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, châu Á - Thái
Bình Dương cũng đang có một xu hướng đáng lo ngại là làm gia tăng
căng thẳng, nguy cơ xung đột và chiến tranh do các hành động thiếu
trách nhiệm, không tôn trọng luật pháp quốc tế, không tuân thủ các quy
tắc ứng xử và luật chơi chung của khu vực, vi phạm độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của các nước khác. Những hành động đó
cần phải bị lên án và cần phải có những biện pháp chế tài để ngăn chặn.

By H.E. Mr. Truong Tan Sang

                                                            President of the Socialist Republic of Viet Nam

Dr John Hamre, President and CEO, Centre of Strategic and International Studies (CSIS)

Ladies and Gentlemen, Friends,

I have great pleasure to come here and speak to you at the CSIS. In the audience, I am aware of the presence of many renowned scholars. Many of you have maintained long-standing interests in Viet Nam. And many of you have made outstanding contributions to the relations between Viet Nam and the United States. My compliments and best wishes to you all.

I appreciate the role of the CSIS as a pre-eminent strategic think tank in the United States and the world in fostering dialogue and understanding between the political circles, academics, and the public of the two nations. CSIS also plays a very important role in promoting awareness of issues relating to security, peace, stability and prosperity in the region. These are the concerns and interests that all nations share. And this is a very important and essential factor that helps promote the co-operation between Viet Nam and the United States in the coming period.

I wish to raise a few thoughts on the strategic environment of the Asia Pacific, and bilateral relations between Viet Nam and America in this context.

Current situation of Asia-Pacific

The profound and unprecedented changes in the world over the last decade have confirmed Asia Pacific as the most dynamic region in the 21st century. Asia Pacific leads the world in economic integration. We have ten out of twenty leading economies here. The flow of trade across the Pacific now accounts for two-thirds of the world’s total. The region also contributes 40% of the world’s total growth.

Today, Asia Pacific stands as a destination of opportunities for all countries in the world: (i) The United States shares its Pacific Rim with us; (ii) Europe enjoys long standing ties with Asia; and (iii) countries on the Indian Ocean are closely tied with the Pacific through the Malacca Straits. Economic prosperity of all countries - be it the United States, China, Japan, Korea or India and ASEAN member states - all contribute to the overall prosperity of the region. A prosperous Asia in its turns serves as a catalyst for the development of each country. The wealth of this region is tied to that of the rest of the world. And therefore, there is little wonder that today’s leading powers all place Asia Pacific at the forefront of their foreign policies.

These enormous opportunities offered by the region are conducive to the trend of co-operation and dynamic connectivity. Regional forums such as APEC and ASEM continue their important role linking Pacific Rim countries with Asia, and Asia with Europe. In the last several years, in addition to bilateral trade agreements, we note the emergence of multilateral trade arrangements such as the Trans Pacific Partnership (TPP), the Regional Comprehensive Economic Partnership (RCEP), and the free trade agreement in Northeast Asia. These linkages will make up a sizable share of world trade & economy and create new growth engine for and will lead to changes in the global economy. We can even speak of an eventual Free Trade Agreement that encompasses the entire Asia Pacific (FTAAP). Needless to say, the successful realisation of these linkages is of strategic importance to all of us.

Ladies and Gentlemen,

Our region has vast potentials to offer, but to translate them into reality requires an environment of peace in the region. Therefore, we must safeguard this environment of peace and stability. We must prevent and manage conflicts. This is a shared responsibility of all countries, within and outside the region.

I believe that the key to a secured peace and prosperity is to build and consolidate a regional structure. In this way, we can promote co-operation and create linkages among economies, among societies, in trade, politics, security, and culture. In this connection, ASEAN has an essential role to play. ASEAN countries lie at the crossroad between the Pacific and the Indian Ocean. We connect all countries in the region, large and small. ASEAN is at the heart of regionalism in Asia. This is why all countries accept ASEAN centrality in the emerging regional architecture.

To ensure peace and security, ASEAN will bring into full use the established mechanisms and forums, and promote the development and implementation of instruments, norms and rules. To ensure the freedom, safety and security of navigation, ASEAN will promote dialogues, confidence building measures, full implementation of the Declaration on the Conduct of Parties in the East Sea (DOC), and settlement of disputes by peaceful means in accordance with the international law and the 1982 UN Convention on the Law of the Seas (UNCLOS). Recently, ASEAN and China agreed to open formal consultations toward a Code of Conduct in the East Sea (COC). This is a positive, yet early sign, and we need to continue to work on it.

To promote its role as the nexus of economic and trade connectivity in Asia, ASEAN will double its efforts to forge linkages among bilateral and multilateral free trade agreements with a view toward a region-wide free trade agreement. The drive toward closer regionalism will serve as the catalyst for economic relations and intertwined interests, which in turn guarantees lasting peace and stability.

Major powers always maintain a grip on international relations, at multilateral forums and in Asia Pacific. To promote relations with external partners is a priority for both ASEAN and Viet Nam. In the quest for a solution to regional security issues, what ASEAN wants to see is the maintenance of peace and stability, the effective operation of regional mechanisms, and the strict adherence to the international law. We hope that all powers will constructively engage in and contribute to this common endeavor. ASEAN shall not be a tool for confrontation or division as this will benefit no country, major powers or smaller countries alike.

In this context, the ASEAN Community of 2015 has become the foremost priority for all ASEAN member states. For us in Viet Nam, this is a very important component of our foreign policy. We have been engaging ourselves in ASEAN affairs in a proactive, positive and responsible manner. We link our own interests with those of ASEAN. We strive to help enhance ASEAN’s role, stature, unity and consensus. Only by doing so can ASEAN have adequate strength to carry out successfully the Community. We will work with other member states to consolidate the role of the Association as the nucleus of regionalism. We will intensify our interaction in a profound way with our external partners for the common goals and interests.

Viet Nam - US Relationship

Within this regional dynamism and prosperity, relations between Viet Nam and the United States have broadened and taken off in many areas in depth, in breadth and in the quality of co-operation. If we look back on the long road that we have taken so far historically, we can realize the truly enormous dimensions of those steps and achievements.

You may be aware that President Ho Chi Minh stepped ashore the United States a hundred years ago on his journey for freedom and independence for his nation. He shared the universal aspiration of the mankind as stated by Thomas Jefferson in the 1776 Declaration that established the United States of America: The rights to life, equality, liberty and the pursuit of happiness. In December 1946, not long after the founding of the Democratic Republic of Viet Nam, President Ho Chi Minh wrote to President Harry Truman, in which he expressed the desire for the two nations to establish ‘full co-operation’. History has had many twists and turns. Not until 1995 did the nations establish formal diplomatic relations that opened a new chapter in the ties between Viet Nam and the United States.

For Viet Nam, a strengthened relationship with the United States is within the context of our foreign policy in which we seek to ensure independence, self-reliance, diversification and multilateralisation of relations, the overall international integration and the deepening of relations with important partners.

I just held talks with President Obama this morning. And I have the pleasure to announce to you: Viet Nam and the United States have decided to form a Comprehensive Partnership between the two countries. Accordingly, our bilateral co-operation will expand to include all areas, including political, diplomatic, economic, trade, investment, education, science and technology, defense and security. I also held meetings with the Commerce Secretary, Agriculture Secretary, the US Trade Representative, World Bank President and IMF Executive Director, Senators and Congressmen, and the Senate Committee on Foreign Relations. President Obama and his Cabinet secretaries stressed that our two countries are having great opportunities to move the relationship forward, and that the United States are committed to boost co-operation with Viet Nam in many fields, especially in trade, investment, economic ties. We will continue to establish mechanisms for dialogue and cooperation, with concrete plans, in order to deepen and bring substances to the growth of our relationship.

Another important element of this visit is that Viet Nam and the United States have reiterated the determination and commitment to work with other partners to bring the TPP negotiations to a conclusion, in accordance with the planned roadmap. We look to a balanced agreement for development. With the eventual joining of this leading economic linkage, Viet Nam has taken a giant step in our overall international integration and in the regional dynamism and prosperity. We hope to realize the benefits in trade, investment, technology, access to higher stages of the global and regional value and supply chains. We also look to create more jobs, to ensure social welfare and to bring the living standard of the population to a higher level.

Joining TPP will help accelerate economic restructuring and transformation of our growth model, and also help further improve the business environment. We do not expect this to be an easy process for a developing economy like ours. We will make our utmost effort, yet we also look to see more of the US side’s flexibility and co-operation. This is a very important factor. US business leaders whom I spoke to affirmed their strong support for our overall bilateral ties, especially trade and investment. And they would do their best to support a high-standard, comprehensive trade agreement that addresses the balanced interests of all parties. They would support a transitional period appropriate to Viet Nam in the TPP process.

We are conscious that when our bilateral relations develop in a stable, lasting and substantial way, that matters not only to both countries, but also to regional peace, stability and prosperity. We welcome President Obama’s commitment to enhance co-operation with Asia Pacific for peace, stability and co-operation. The United States views ASEAN as the central pillar of this policy and supports ASEAN centrality in the regional architecture. The US also voices support for peace, stability, security and maritime security and safety in the Eastern Sea. Apart from TPP, Viet Nam will accelerate cooperation with the United States at various forums, including ASEAN-led mechanisms, Lower Mekong cooperation, the East Asia Summit and APEC.

In the meantime, we need to continue our work on outstanding issues that remain between us. As a nation with a pacific tradition, Viet Nam shelves the past and looks to the future. I am of the view that differences and disagreements exist as a matter of course in any international relation. What we need to do is to build confidence, to build our relationship on the respect for each other’s independence, sovereignty, equality, political system and the principle of mutual benefit.

Looking back on the history of Viet Nam - US relations, the establishment of the Comprehensive Partnership today is the culmination of a forward-looking co-operation process pursued by both sides. It began with efforts for post-war normalisation of relations, then the establishment of diplomatic ties in July 1995, hence a new era of relations between the two countries and people. In the past 18 years, bilateral relations have made great strides. 2005 marked yet another milestone with the establishment of a friendly, constructive, and multi-faceted cooperative partnership on the basis of equality, mutual respect, and mutual benefit.

With the growth of bilateral ties comes the change in how we work together. The policy of embargo, encirclement, sanction as the modality of relations between the two ex-foes gave way to the policy of reconciliation, multifaceted cooperation and of forging constructive partnership under the principles of respect for each other’s political system, mutual benefit, dialogue and increased exchanges to bridge differences. Bilateral trade and economic ties have been growing fast. The U.S. became Viet Nam’s largest export market in 2005. Then within 18 years, bilateral trade saw a 54-fold increase. By the end of May 2013, US total investment in Viet Nam amounted to US$10.5 billion, ranking seventh among countries and territories investing in our country. Co-operation in science, technology, culture, education, tourism, defense, security has all seen substantial growth. A range of activities has been conducted with fruitful results and positive impacts on both sides on such areas as healthcare, humanitarian co-operation like mine clearance, unexploded ordnance, consequences of Agent Orange and dioxin, accounting for missing people in the war.

On the topic of human rights, we accept that there are differences. The most viable way is to continue our dialogue in a frank manner so as to enhance understanding and to narrow differences. It is with that spirit that during the meeting with US Senators and Congressmen, we exchanged views in an open and friendly manner on our bilateral relations, including human rights and religious issues. I also invited several religious clergies from Viet Nam to join me on this visit and they had very frank talks with American and international institutions who are interested in these issues.

Ladies and Gentlemen,

The message I wish to emphasise is that Viet Nam hopes to work with the United States to further this full co-operation in the interests of both nations. We should work together to nurture a peaceful, stable, dynamic and prosperous Asia Pacific. And we strive, we must strive harder in our co-operation for that common objective with the principle of mutual respect, equality, and mutual benefit.

I thank you, Dr John Hamre and other participants for your very cordial reception. I hope that CSIS will continue with your many conferences, seminars and roundtables in order to exchange ideas on the cooperation process in Asia Pacific. I hope that you will exchange ideas on how to boost the bilateral relations with Viet Nam as well. I hope each of you will continue in your activities to contribute in a significant way toward this process, as you have done so far.

Thank you once again!

Những bài viết được quan tâm nhất

Giỏ hàng

Giỏ hàng hiện đang trống.
Xem giỏ hàng

Đăng nhập

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterToday415
mod_vvisit_counterYesterday127
mod_vvisit_counterThis week1187
mod_vvisit_counterLast week1037
mod_vvisit_counterThis month5955
mod_vvisit_counterLast month4403
mod_vvisit_counterAll days297267

Học viện Ngoại giao

Địa chỉ: 69 Chùa Láng – Đống Đa – Hà Nội
Điện thoại: 0438344540, máy lẻ 7106
Email: tapchi_ncqt@mofa.gov.vn, Web: www.isr.vn
©Copyright 2011-2024 Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế | Xây dựng trên nền tảng Hệ quản trị mã nguồn mở Joomla